Thiết kế đô thị – một lĩnh vực động và linh hoạt. Nó
không giống như thiết kế cơ khí hay những hạng mục công trình xây dựng
để có thể dễ dàng chuẩn hóa, nó rất đa dạng và khác nhau, tùy thuộc vào
từng nơi chốn với những không gian cụ thể và tại các vùng miền khác
nhau. Sự khác nhau còn là nhân tố khuyến khích để tạo nên những đô thị
có bản sắc. Nếu có thêm các tiêu chuẩn quy phạm hay hướng dẫn thiết kế
cũng chỉ nên là những yêu cầu cơ bản và dừng lại ở những nguyên tắc
chung”.
Thiết kế đô thị khu công viên Marina Bay Sands, Singapore
Thực trạng quy hoạch thiết kế đô thị
Ngay sau khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, công cuộc xây dựng
trên khắp các đô thị ở nước ta có cơ hội được phát triển với một tốc độ
nhanh, quy mô rộng lớn và khá toàn diện trên hầu hết các khía cạnh của
không gian đô thị. Một số năm sau đó, vẫn chưa thấy đô thị của chúng ta
đẹp hơn mặc dù sự “thay da đổi thịt” là có, từ các khu đô thị mới đến
các khu phố cũ cũng đều được chỉnh trang hoàn thiện…
Trước vấn đề này, nhiều hội thảo về thiết kế đô thị đã được mở ra. Có
ý kiến cho rằng, chúng ta đã một thời hiểu không đúng về thiết kế đô
thị, xem thiết kế chi tiết của đồ án quy hoạch là bước cuối cùng để hình
thành việc thực thi mọi yếu tố kỹ thuật và cảnh quan đô thị. Đây là
những ý kiến có những phát hiện đúng.
Thiết kế đô thị là một lĩnh vực chuyên sâu. Nó cần được xác định một
cách chủ động ngay từ bước ý tưởng quy hoạch chung của đồ án quy hoạch.
Không thể chỉ là sự định hướng bằng những chi tiết thiết kế điển hình
của bước
quy hoạch chi tiết.
Đây phải là bước cụ thể hóa một cách toàn diện từ các vấn đề của không
gian tổng thể, của hệ thống hạ tầng đô thị đến các chi tiết của cảnh
quan đô thị. Đây là bước phải hình thành đầy đủ một hệ thống hồ sơ, đáp
ứng một trình tự kế hoạch xây dựng và dự toán chi tiết của khu vực thiết
kế.
Sự đồng thuận về nhận thức, trong sự thiếu hụt và kém sâu sắc về
thiết kế đô thị, từng bước đã đưa các vấn đề chuyên môn này, vào Luật
Quy hoạch đô thị, vào Quy chuẩn quy hoạch xây dựng, vào các Nghị định
của Chính phủ và các thông tư hướng dẫn về thiết kế đô thị của Bộ Xây
dựng. Như vậy có thể thấy rằng, về khung pháp lý, thiết kế đô thị đã
được chỉ rõ để giới chuyên môn, các nhà quản lý có căn cứ để vận dụng
thi hành.
Chúng ta đều biết rằng, thiết kế đô thị không thuần túy chỉ là những
gì mà người ta nhìn thấy hàng ngày. Nếu được xem xét một cách bài bản,
thiết kế đô thị còn được bắt nguồn từ những luận cứ vĩ mô và sâu xa như
kinh tế đô thị, xã hội học đô thị… Song cái kết quả cuối cùng của thiết
kế đô thị lại chính là cái mà người ta cảm thụ được, nó hiện hữu hàng
ngày trong môi trường sống của đô thị. Nó tác động vào con người trong
mọi khoảng không gian và thời gian, chính vì vậy nó là vấn đề hết sức
nhạy cảm. Đâu có những con đường trải dài nối tiếp nhau, cả khi thay
chiều đổi hướng, với những hàng cây thảm cỏ được chăm chút, chọn lựa kỹ
càng. Gạch lát vỉa hè bằng phẳng với những hàng gạch đồng nhất thẳng
tắp, lâu lâu lại thấy một nắp hố ga ép mặt ngay ngắn trên mặt vỉa hè.
Lại thấy một thùng rác được bố trí tiện dụng đúng chỗ, lại thấy những
biển báo, ký hiệu thông tin hướng dẫn cho người đi bộ, và còn những
chiếc ghế cho những người già mỏi chân ngồi nghỉ… Chỉ đi trên vỉa hè của
những con đường này thôi đã cho người ta cảm nhận ấn tượng về nơi chốn,
con người cảm thấy được nâng niu, chăm sóc và trân trọng.
Trong các đô thị của chúng ta, những điều này còn hiếm lắm, hầu hết
là hình ảnh của sự vội vàng cho xong, đôi khi còn là sự cẩu thả vô trách
nhiệm, phi chuyên môn nghề nghiệp. Và chính chúng đã là nguyên nhân gây
nên những tai nạn trên đường đối với cư dân đô thị. Đâu có những quảng
trường rộng rãi, với cảnh quan tất cả các góc nhìn đều hấp dẫn, với các
công trình điểm nhấn, bố trí xung quanh đều thỏa đáng, đứng ở bất cứ vị
trí nào, chỉ cần đưa ống kính lên là có ngay một bức ảnh ưng ý. Chỉ cần
nhìn thoáng qua không gian quảng trường, đã có thể hiểu ngay ý đồ của
nhà thiết kế, biết rằng họ đã dự tính cho nơi đây những hoạt động của
cộng đồng như thế nào, trong các khoảng thời gian trong ngày và hàng
tuần, cũng như trong các dịp lễ hội cần thiết. Những điều này, trong các
đô thị của chúng ta, cũng còn hiếm lắm, nó dường như là một sự xa xỉ
nên rất ít được quan tâm.
Một số khu vực có quảng trường, nhưng nó giống như một khoảng đất kẹt
trong phần lưu không của đô thị. Quảng trường phải là một mạng lưới
phân bố chủ động trong quy hoạch chung của không gian đô thị. Nó là một
khoảng nghỉ, để điều tiết chuyển hóa không gian, làm cho “bản nhạc đô
thị” được sinh động và hấp dẫn. “Bản nhạc đô thị” không có các quảng
trường khác gì chỉ là một giai điệu buồn tẻ và nhàm chán.
Hình ảnh trong các đô thị của chúng ta, cho thấy công tác quản lý
thiết kế đô thị còn rất nhiều bất cập. Hầu hết hình ảnh các tuyến phố,
kể cả khu phố cũ và mới, kiến trúc mặt phố giống như một cuộc đại triển
lãm về đồ họa quảng cáo. Không còn thấy đâu là kiến trúc, nói gì đến
ngôn ngữ kiến trúc và bản sắc địa phương. Phố còn như vậy, nói gì đến
kiến trúc ven hồ nước và các dòng kênh trong đô thị. Làm sao để có được
những bờ kè được chăm chút ngay ngắn, với những ta luy cỏ mượt mà đẹp
mắt. Tất cả những tiểu kiến trúc, những chi tiết kiến trúc ở nơi đây,
phải có bàn tay và tâm hồn của các kiến trúc sư chuyên nghiệp. Để kè hồ,
kè kênh không chỉ là chức năng thủy lợi. Để cây cầu qua kênh, qua sông
không chỉ là chức năng giao thông, để chân cầu, mố cầu không chỉ là bệ
đỡ của nhịp cầu, không phải là điểm hẹn để đổ rác xung quanh, phải là
những thiết kế có tính thẩm mỹ, có giá trị văn hóa nghệ thuật, thơ mộng
và là điểm hẹn của tình yêu.
Có rất nhiều những tồn tại trong thiết kế và quản lý đô thị của chúng
ta không thể kể hết được. Đó chính là nguyên nhân mà đa số người dân
không thấy đô thị của chúng ta đẹp là như vậy. Câu chuyện về những tồn
tại này không chỉ là những vấn đề trong hệ thống các văn bản pháp quy về
thiết kế đô thị, mà còn do tính hệ thống của nhiều nguyên nhân sâu xa
khác, cần được phân tích lý giải.
Quy chuẩn trong quy hoạch và thiết kế đô thị hiện nay
Khi bàn về những bất cập như đã nói trên, có nhà chuyên môn cho rằng,
Nhà nước cần phải ban hành đầy đủ hơn về các văn bản quy phạm và tiêu
chuẩn thiết kế đô thị. Song, tôi cho rằng, cái gốc của vấn đề không phải
là sự thiếu hụt các văn bản hướng dẫn. Chúng ta đều biết rằng, thiết kế
đô thị là một lĩnh vực động và linh hoạt, nó không giống như thiết kế
cơ khí hay những hạng mục công trình xây dựng để có thể dễ dàng chuẩn
hóa. Nó rất đa dạng và khác nhau, tùy thuộc vào từng nơi chốn với những
không gian cụ thể và tại các vùng miền khác nhau. Sự khác nhau còn là
nhân tố khuyến khích để tạo nên những đô thị có bản sắc. Nếu có thêm các
tiêu chuẩn quy phạm, hướng dẫn thiết kế thì cũng chỉ nên là những yêu
cầu cơ bản và dừng lại ở những nguyên tắc chung mà thôi.
Trong Thông tư “Hướng dẫn về nội dung thiết kế đô thị – số
06/2013/TT-BXD – ngày 13/5/2013” của Bộ Xây Dựng – là một hướng dẫn khá
đầy đủ và rõ ràng. Từ “yêu cầu chung về thiết kế đô thị”, từ “thiết kế
đô thị trong đồ án quy hoạch chung”, “thiết kế đô thị trong đồ án quy
hoạch chi tiết” đến “thiết kế đô thị trong đồ án thiết kế đô thị riêng”.
Đây là một thông tư với những nội dung hướng dẫn rất mở, không có gì là
ràng buộc, làm khó cho các nhà chuyên môn. Vấn đề còn lại là trách
nhiệm của những người trong cuộc.
Trong Quy hoạch xây dựng nói chung, không riêng gì ở Việt Nam mà ở
đâu cũng vậy, đều phải trải qua các giai đoạn, các bước thiết kế, từ
tổng thể đến chi tiết, từ định hướng đến cụ thể hóa. Đây là một nguyên
tắc kinh điển trong lĩnh vực
quy hoạch xây dựng.
Với chuỗi hệ thống các bước công việc này sẽ dẫn đến kết quả cuối cùng
là chất lượng của thiết kế đô thị. Bởi tính dây chuyền của hệ thống
thiết kế – Bước sau là sự kế thừa các nghiên cứu của bước trước. Chính
vì vậy, nên chất lượng nghiên cứu của các bước đều cần được đầu tư
chuyên môn một cách thỏa đáng. Tránh tình trạng khi bước sau phát hiện
ra những sai lầm của bước trước (ở Việt Nam) cũng không dễ dàng được
thay đổi, bởi đồ án quy hoạch ở bước trước trở thành pháp lý.
Kinh nghiệm thực tế về công tác quy hoạch xây dựng trong giai đoạn vừa qua, có một số vấn đề cần được trao đổi như sau:
– Chính quyền ở một số địa phương, đôi khi còn quá cứng nhắc, khi có
những kiến nghị điều chỉnh quy hoạch (tất nhiên, phải là những kiến nghị
đúng đắn về học thuật, mang lại lợi ích cho xã hội đô thị). Chúng ta
đều biết, quy hoạch là một phạm trù động, tầm nhìn ở mỗi một thời điểm
có thể có những nhận thức khác nhau. Nên cần có trách nhiệm xem xét một
cách cẩn trọng;
– Rất nhiều các đồ án quy hoạch chung còn chưa thỏa mãn được đầy đủ
các yêu cầu tự thực hiện. Cho dù là bước tổng thể, song cũng rất cần một
sự đầu tư nghiên cứu kỹ càng và có chiều sâu. Ngay từ bước đầu này, đã
cần một đội ngũ chuyên gia giỏi về các lĩnh vực chuyên môn, đặc biệt rất
cần sự tham gia của các kiến trúc sư giỏi về thiết kế công trình đối
với các đồ án quy hoạch chung;
– Do đặc thù của các bước thẩm duyệt sản phẩm của đồ án quy hoạch.
Bước sau thường được thực hiện bởi các cá nhân và tổ chức tư vấn khác,
nên đôi khi cũng không hiểu hết được ý đồ của nhà tư vấn trước. Trong
giai đoạn vừa qua, rất nhiều địa phương chuộng tư vấn nước ngoài làm quy
hoạch, mặc dù họ không phải là những người hiểu Việt Nam và địa phương
lắm. Họ thường thuê các tổ chức tư vấn của Việt Nam triển khai tiếp phần
thiết kế ý tưởng (concept) mà họ đã được chính quyền địa phương phê
duyệt. Là người làm thuê lại, nên các tư vấn Việt Nam cũng chỉ triển
khai một cách thụ động tất cả những gì mà đồ án ý tưởng đã nêu. Chính vì
vậy thiếu chiều sâu và dù là tư vấn nước ngoài thiết kế, song cũng
không mấy thành công;
– Cần khuyến khích và coi trọng các dự án quy hoạch, tất cả các bước
nghiên cứu, từ bước ý tưởng ban đầu, đến bước khả thi cuối cùng của dự
án là cùng một tác giả, để đề cao tinh thần trách nhiệm, bảo đảm tính
chuyên sâu và đồng nhất về phong cách. Đối với các dự án có quy mô lớn,
được triển khai bởi nhiều tổ chức tư vấn, song vai trò của tổ chức tư
vấn có đồ án ý tưởng được phê duyệt phải có trách nhiệm đến cùng trong
quá trình triển khai các bước tiếp theo. Trên thực tế, các cơ quan quản
lý của chính quyền địa phương cũng không thể làm tốt sự kết nối này
được. Chỉ có tác giả của nó mới giữ được cái hồn của dự án;
– Trong một giới hạn không gian đô thị nào cũng vậy, đều có 2 loại
đất: đất có chủ (đối tượng sử dụng đất này thuộc về chủ đất) và đất
thuộc về cộng đồng. Nếu không có một nhận thức đúng đắn và tinh thần
trách nhiệm vì tương lai của đô thị, 2 loại đất này thường rơi vào 2
tình trạng như sau: trong phạm vi đất có chủ, thường là hình ảnh thực
dụng và ích kỷ, kém về kết nối với môi trường xung quanh. Trong phạm vi
đất thuộc về cộng đồng, thường là hình ảnh sơ sài và thiếu chu đáo kỹ
càng, có thể dễ dàng nhận thấy, các sản phẩn đô thị trong phạm vi đất
này, kinh phí dành cho nó đã không được dự trù và đầu tư một cách thỏa
đáng. Do vậy, với cả 2 tình trạng này làm sao đô thị của chúng ta đẹp
được;
Trong đô thị của chúng ta hiện nay (như Hà Nội), cụ thể là câu chuyện
về những ngôi nhà xấu, ngôi nhà siêu mỏng – là hệ lụy của việc mở đường
qua các khu dân cư. Các dự án này, hầu như chỉ mới làm được một việc là
có con đường giao thông, còn hình ảnh về kiến trúc hai bên của tuyến
đường này như thế nào, xử lý những ngôi nhà siêu mỏng ra sao thì vẫn
chưa được quan tâm giải quyết. Tất nhiên, không phải không có cách giải
quyết. Rõ ràng cần nhìn nhận đúng đắn cũng như cách làm mang tính khoa
học của những người trong cuộc của dự án này. Họ thi hành công vụ làm
đường như một cái máy, không hề có sự rung động gì về thiết kế đô thị;
– Trong các cơ sở đào tạo, chương trình giảng dạy chuyên sâu về thiết
kế đô thị cũng chưa được quan tâm một cách thấu đáo. Phần lớn các môn
học và các đồ án trải nghiệm với sinh viên mới chỉ đạt tới ngưỡng của
những khái niệm. Trong khi, thiết kế đô thị lại là một phạm trù vừa cần
có một tầm nhìn chiến lược, lại vừa phải rất cụ thể đến từng viên gạch
của hệ đường đô thị. Vậy làm sao đây! Khi đội ngũ những con người này là
lực lượng cốt lõi để tạo nên hình ảnh đô thị của chúng ta. Kinh phí
dành cho những chuyến trải nghiệm, học hỏi kinh nghiệm trong các đô thị ở
nước ngoài, cũng không đến lượt những người hàng ngày phải trực tiếp
làm
tư vấn thiết kế,
hay trực tiếp thụ lý hồ sơ thẩm duyệt. Phần lớn dành cho chuyến đi của
các lãnh đạo – những người không trực tiếp với những công việc này! kết
quả là, cảm xúc và kiến thức của người được trải nghiệm, không thể
chuyển hóa được vào trong các đồ án quy hoạch đô thị của chúng ta.
Không gian quảng trường và trung tâm dịch vụ khu ĐTM Time City, Hà Nội
Thiết kế đô thị giữa những công trình kiến trúc
Trong không gian đô thị, cái mà người ta nhìn thấy, quan sát thấy sẽ
vô cùng lớn, lớn hơn rất nhiều trong một giới hạn không gian mà con
người có thể tiếp cận được, di chuyển được bằng chính sự vận động của cơ
thể mình. Song, khái niệm về tiếp cận chính là bao hàm cả những cảm
nhận của con người thông qua thị giác. Chính vì vậy, cảnh quan đô thị
xấu hay đẹp, cảm xúc hay không đã bao trùm lên tất cả trong ý thức của
cư dân đô thị hay du khách viếng thăm. Điều này cho thấy, người ta có
thể nhận biết được kết quả của thiết kế đô thị mọi lúc, mọi nơi và đồng
thời từ các chi tiết kiến trúc nhỏ, đến tất cả các phương chiều của
không gian đô thị đó, có chăng chỉ còn bị giới hạn bởi bên trong – nội
thất của những ngôi nhà có chủ.
Trong cuốn sách nổi tiếng của tác giả JAN GEHL “Cuộc sống giữa những
công trình kiến trúc”, cho thấy cư dân đô thị, cuộc sống hạnh phúc của
họ không chỉ giới hạn trong ngôi nhà riêng, mà còn chính là khoảng không
gian công cộng bên ngoài, giữa những công trình kiến trúc. Bao gồm cả
ba loại hoạt động: hoạt động thiết yếu, hoạt động tự chọn và những hoạt
động xã hội. Tất cả các hoạt động này kết hợp với nhau để tạo thành các
không gian cộng đồng ở thành phố, các khu dân cư đầy ý nghĩa và có sức
hấp dẫn. Đối với thói quen sống mở của người Việt Nam, vấn đề này càng
trở nên thiết thực và có ý nghĩa quan trọng. Trên các mặt phố của đô
thị, không chỉ có các hoạt động xã hội, mà kể cả những sinh hoạt riêng
hàng ngày đều dễ dàng phô bày trên đường phố. Nhiều du khách và học giả
nước ngoài cho rằng đây cũng là nét hay, đặc sắc và thú vị khi họ cùng
được trải nghiệm, hòa nhập vào cuộc sống đời thường của cư dân bản địa
và cuộc sống giữa những công trình kiến trúc. Tôi lấy vấn đề này để đặt
tên tiêu mục “thiết kế đô thị giữa những công trình” với mong muốn rằng,
chúng ta hãy coi trọng và đầu tư thích đáng cho thiết kế đô thị.
Thiết kế đô thị ở nước ta còn chưa có bề dày kinh nghiệm, nên người
làm cần giữ tâm và trách nhiệm nghề cao. Từ quy hoạch chính sách chiến
lược, từ ý tưởng thiết kế quy hoạch chung đến việc triển khai từng chi
tiết nhỏ của đô thị. Từ công tác đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực cho
công tác tư vấn thiết kế, công tác quản lý, thẩm tra phê duyệt và điều
hành triển khai thực hiện dự án đến việc xây dựng thi công của các nhà
thầu, tất cả đều phải được nghiêm túc thực hiện trong một khung pháp lý
đầy đủ, chặt chẽ và chuyên nghiệp. Sự tác thành nên một không gian đô
thị là một quá trình, với sự tham gia của rất nhhiều yếu tố con người
với nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau. Nếu có sự sai lầm thì hậu quả
của nó là khôn lường và không dễ dàng sửa chữa.
Không ở đâu hình ảnh đô thị lại giống như ở đất nước chúng ta. Sản
phẩm đô thị là kết quả của nơi gặp gỡ giữa tư duy của những tư vấn
nghiệp dư được thực hiện bởi bàn tay của những nhà thầu chưa chuyên
nghiệp. Có thể nói, bất cứ một người công nhân xây dựng nào (thậm chí là
nông dân xây dựng) cũng có thể được điều đến để hoàn thiện các sản phẩm
của hè đường đô thị. Đa số các nhà thầu còn quan niệm quá dễ dãi, họ
cho rằng, những tiểu kiến trúc trên các đường phố là những công việc
nhỏ, đơn giản. Nhưng họ không biết rằng, đây lại là những công việc rất
tinh tế và nhạy cảm, rất cần thực hiện bởi những người công nhân có kỹ
năng và có mắt thẩm mỹ. Chính vì quan niệm thiếu trách nhiệm như vậy nên
hầu như chúng ta không có những cơ sở đào tạo tay nghề chuyên sâu cho
các loại hình công việc xây dựng trên các hè phố. Tuy chỉ là những bó
vỉa bờ hè đường phố, là những viền bờ hàng cây, bồn hoa, bậc cấp, đường
dốc lên xuống… tất cả đều tưởng chừng như đơn giản, nhưng không hề dễ
chút nào! Nếu vẫn còn cách tư duy, đây là những khối lượng công việc
thuộc về “nước sông công lính” thì không thể chấp nhận được, ứng xử như
vậy là không có văn hóa.
Trên các tuyến đường, hè phố, rất phổ biến trong các đô thị ở ta,
công tác hoàn thiện vừa mới làm xong, lại thấy bật lên đào bới để bổ
sung, chỉnh trang, nâng cấp một hệ thống kỹ thuật hạ tầng nào đó. Không
rõ công tác kế hoạch, quản lý, phối hợp liên ngành của chính quyền địa
phương như thế nào, song hiện tượng này là thường xuyên và khá phổ biến.
Đây là những việc làm tùy tiện, gây rất nhiều trở ngại cho cư dân đô
thị. Đã như thế lại còn không thể chấp nhận được khi dễ dàng nhận thấy
dấu vết của từng đợt thi công này. Đợt làm sau không bao giờ có ý thức
hoàn trả lại hè, đường phố như hình ảnh ban đầu của nó. Kết quả là, hình
ảnh của những hè đường phố chắp vá, không nhất quán dẫn đến xập xệ, hư
hỏng, bong lở, chất liệu hàn gắn tùy tiện. Đây là một cách ứng xử thiếu
văn hóa một cách tồi tệ. Trong khi chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy ở
nước ngoài, chỉ thay thế vài ba viên gạch lát hè đường, người ta đã phải
quây diện tích hè đó lại, có biển báo công trường và xin lỗi đã làm
phiền cộng đồng, có những người công nhân ăn mặc bảo hộ lao động với
những dụng cụ chuyên nghiệp, một cách nhanh chóng thay thế và hoàn trả
lại hình ảnh ban đầu, không phân biệt được đâu là mới, đâu là cũ.
Cũng không ở đâu như đô thị ở Việt Nam chúng ta (đặc biệt ở Hà Nội).
Một hiện tượng khó có thể chấp nhận được: Hè đường phố vừa mới hoàn
thiện xong, chỉ vài ba ngày sau, trước cửa các ngôi nhà mặt phố, hàng
loạt các mặt vát nghiêng nối từ mặt đường lên hè đủ các kiểu cách khác
nhau, tùy tiện tạo dựng để dễ dàng cho xe lên xuống. Hiện tượng này là
tự ý của người dân nhưng không mấy ai nhắc nhở ngăn cấm. Với hình ảnh
nham nhở, lủng củng như vậy, đường phố làm sao đẹp được, mặt khác chức
năng chênh cao độ giữa hè và đường còn là nơi thoát nước, dẫn vào các hố
ga. Chính những việc làm này đã làm cho nước bị ứ đọng, rác bẩn gây mất
vệ sinh công cộng. Đây là hình ảnh hiện tại có thể thấy ở bất cứ đường
phố nào có dân cư ở Thủ đô Hà Nội.
Trên các hè phố, sự lủng củng cao thấp, thò thụt của các bậc cấp lên
xuống trước cửa các nhà dân mặt phố cũng cho thấy sự thiếu quản lý,
thiếu thẩm mỹ một cách tệ hại. Điều này ở phố cổ trước đây thời Pháp
thuộc không có, còn nay phổ biến ở các khu phố mới. Nguyên nhân do khi
cấp phép xây dựng đã không quản lý tốt về cốt nền đô thị, các nhà dân tự
ý xác định nền nhà của mình, đề phòng Nhà nước làm đường nâng cốt,
những dự phòng khác nhau của người dân đã dẫn đến thảm cảnh này. Mặc dù
đây là hiện tượng vi phạm Quy chuẩn xây dựng Việt Nam nhưng chính quyền
địa phương trước sau cũng phải bàn với người dân để cải tạo xử lý hiện
tượng này.
Kết luận
Ngày nay, cùng với việc hoàn thiện các vấn đề Quy chuẩn Tiêu chuẩn
cũng như trong thiết kế quy hoạch xây dựng, xu hướng phát triển đô thị
khuyến khích nhiều tới sự tham gia của cộng đồng, có như vậy mới hướng
tới được đô thị bền vững. Trong thiết kế đô thị, thi công xây dựng đô
thị, với việc gìn giữ tài sản vật chất và tinh thần của đô thị, không
thể như những hiện tượng nghịch lý đã nêu ở trên đây.
Một đô thị văn minh và thân thiện là trách nhiệm của tất cả chúng ta,
phải là truyền thống của hôm nay và mãi mãi về sau. Cư dân đô thị có
thể tự hào về thành phố của mình, khi họ biết chắc chắn trong con mắt
của du khách đã cảm nhận được rằng, người dân ở địa phương đã biết ứng
xử đầy trách nhiệm với thành phố của mình./.
Nguồn Tạp chí kiến trúc Việt Nam